Lịch sử Chương_trình_nghị_sự

Bản sao chép "Đại hiến chương" do Thư viện Đại Anh bảo tồn, bản đó chế tác vào năm 1215.

Chương trình nghị sự hiện đại bắt nguồn ở Anh Quốc, nhưng mà pháp luậtchính trị của Anh Quốc và cả khu vực Tây Âu bị luật La Mã ảnh hưởng.[7] Ban đầu thành bang Athens ở Hi Lạp cổ đại, Đại hội công dân Athens - đại hội nghị luận và đưa ra quyết định các sự vụ công chúng, đã có khái niệm hiện đại "đa số quyết" và "số người luật định", quyết sách trọng yếu và việc ra lệnh bổ nhiệm nhân sự của nó, đều sử dụng vỏ ngao vỏ hến để tiến hành quyết định như phiếu bầu; lúc biểu quyết nếu không có 6.000 phiếu, thì kết quả biểu quyết mất hiệu lực và huỷ bỏ.[8] Tuy nhiên, chế độ dân chủ ở thành bang Athens cổ đại hoàn toàn không phù hợp nguyên tắc bình đẳng hiện đại, công dân có đủ quyền bầu cử chỉ giới hạn ở nam giới dân tự do tuổi thành niên, nô lệnữ giới đều không có cách nào tham dự sự vụ công cộng. Trừ Hi Lạp cổ đại ra, nam giới thành niên cư dân thành phố của thời đại vương quốc La Mã cũng có thể tham dự hội nghị cư dân thành phố, tiến hành biểu quyết nhắm vào các đề án của quốc vương.[9]

Sau khi đế quốc La Mã diệt vong, giáo hội Cơ Đốc giáo đứng sừng sững vững vàng, trở thành lãnh tụ tôn giáo của các nước châu Âu vào thời kì Trung Cổ. Sau khi luật học La Mã tiến vào tổ chức giáo hội, năm 1059, giáo hoàng Nicôla II ban bố chiếu lệnh "Nhân danh Chúa", tuyên bố rằng do các hồng y giáo chủ tiến hành bầu cử giáo hoàng, và lấy nguyên tắc đa số quyết làm phương thức biểu quyết.[10] Sau nó, các nước châu Âu đều lấy nguyên tắc đa số quyết làm phương pháp biểu quyết cho các hạng mục sự việc cần nghị luận và đưa ra quyết định.[7] Ở khu vực Anh-cách-lan ngày nay, từ sau khi "người Norman chinh phục", quốc vương lập tức có quyền tổ chức hội nghị quý tộc phong kiến, coi là cơ cấu thương lượng, hỏi tra của vương quyền. Tuy nhiên, vương quyền Anh-cách-lan mất hết lợi ích từ sau chiến tranh đối ngoại (chiến dịch Bouvines), cuộc tranh giành ngôi vua mang tính lẽ phải, đúng đắn, và quốc vương vì nguyên do tranh đoạt quyền hạ lệnh bổ nhiệm đại giáo chủ Canterbury nên bị giáo hoàng trục xuất dẫn đến quan hệ hai bên sa sút, quốc vương của vương triều Plantagenet John bị ép bức tiếp nhận "Đại hiến chương" do quý tộc phong kiến đề xuất, khiến cho hội nghị thoát li sự khống chế của vương quyền, và khiến cho hội nghị trở thành khuôn mẫu đầu tiên của quốc hội Anh Quốc về sau.[11] "Đại hiến chương" không chỉ trao quyền cho uỷ ban gồm 25 người quý tộc hợp thành có quyền phủ quyết mệnh lệnh quốc vương, lúc tuyệt đối phải cần vẫn được dùng vũ lực để chiếm giữ tài sản và thành luỹ của triều đình; đồng thời, quốc vương chưa qua quan toà thẩm phán thì không được xét xử phán quyết tuỳ ý, tróc nã, đày đuổi hoặc tịch thu mạng sống và tài sản nhân dân, so sánh thấy tương đồng việc bảo vệ tự do thân thể hiện đại, cũng xác lập nguyên tắc "pháp luật cao hơn vương quyền".[11]

"Đại hiến chương" mở ra trang mới chính trị Anh Quốc, theo đó quốc hội tranh quyền, hạn chế và cân bằng với vương quyền lẫn nhau, quốc hội Anh Quốc phát triển và cho ra một bộ quán lệ nghị sự; nghị sĩ quốc hội từ việc sử dụng và thực thi quyền lực (thí dụ như quyền thẩm tra dự toán) cho đến thảo luận các đề án đưa vào nghị trình kì họp, đều bị quán lệ nghị sự bất thành văn trói buộc; ví dụ, nghị viện có quyền thẩm tra việc thu chi tài chính công của chính phủ. Trên thực tế, nguyên tắc "chưa qua quốc hội đồng ý, không được thu thuế tuỳ ý", chính là được xác định ở trong "Đại hiến chương", và trở thành quyền lực chính trị chủ yếu nhất và trước nhất của quốc hội Anh Quốc.[11] Lấy nó làm điểm xuất phát, hơn nữa hun đúc ảnh hưởng các nhà tư tưởng của thời đại Khai sáng, ngày 4 tháng 7 năm 1776, đại biểu mười ba thuộc địa xếp hàng ngay ngắn tụ họp ở thành phố Philadelphia, kí kết "Tuyên ngôn độc lập Hoa Kì", tuyên bố Hoa Kì sắp trở thành một nước bình đẳng, tự do và độc lập. Quốc hội Hoa Kì vừa mới thành lập đã tiếp thu quán lệ nghị sự mà quốc hội Anh Quốc tích luỹ lâu năm, lại bị nhà tư tưởng thời đại Khai sáng ảnh hưởng, để đem quán lệ nghị sự biến thành văn bản, cựu tổng thống Hoa Kì Thomas Jefferson viết và ban bố "Sổ tay quy tắc nghị sự thượng viện Hoa Kì", trở thành quy tắc nghị sự mà quốc hội Hoa Kì về sau tuân theo.